Laptop cũ Asus K53E
Laptop mới bán giá cũ!
Máy tính cho Game thủ
Khuyến mãi đặc biệt!

Tại sao chúng tôi đạt được thành công?

Chúng tôi tập hợp các nhân viên đã từng làm cốt lõi của nhiều công ty, nay cùng hợp tác và lấy sức mạnh mỗi cá nhân tiêu biểu tạo thành khối sức mạnh tổng thể. Vậy nên đảm bảo được các yêu cầu chung và hướng vào giá trị cốt lõi: - Kỷ luật hướng vào tính chuyên nghiệp; - Hoàn thiện tổ chức hướng tới dịch vụ hàng đầu; - Năng động hướng tới tính sáng tạo tập thể; - Cam kết nội bộ và với cộng đồng, xã hội; - Làm việc và hành động trung thực, nhiệt tình và gần gũi với khách hàng. Tất cả giá trị đó sẽ đem lại cho Quý khách một sự an tâm và thấy được những gì chúng tôi có và có thể mang lại.
Tóm tắt Giới thiệu từ Ban tổ chức.

Kinh nghiệm và nghiệp vụ của chúng tôi?

Mặc dù mới thành lập không lâu, xong chúng tôi là tổng hợp của nhiều cá nhân có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kỹ thuật và tự hào rằng chúng tôi tiếp cận với các công nghệ hiện đại một cách chủ động và khoa học kết hợp với vốn hiểu biết và kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, do vậy chúng tôi tin tưởng có thể mang lại cho Quý khách một chất lượng phục vụ tốt nhất! Mong tiếp tục nhận được sự hưởng ứng của Quý khách!
Lời giới thiệu từ Ban kỹ thuật MHT
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thế cờ đang ở trong tay ai Trung Quốc hay Việt Nam?

Thế cờ đang ở trong tay ai?

Sang dự Đối thoại Shangri-la, dự kiến sẽ diễn ra trong ba ngày từ 30/5-1/6, Việt Nam cử một phái đoàn gồm 20 quan chức, dẫn đầu bởi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh và có cả Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.
Phái đoàn Việt Nam đứng trước nhiều thách thức tại Đối thoại Shangri-la năm nay
Giáo sư Thayer chia sẻ: “Giới chức Việt Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể. Đại tướng Phùng Quang Thanh có thể sẽ than phiền về một số hành động trên Biển Đông của Trung Quốc và đề cập tới khả năng mở đường dây nóng giữa hai nước, tăng cường trao đổi giữa các phái đoàn cấp cao và tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho tranh chấp hiện nay, ví dụ như kêu gọi sớm đi đến một Bộ quy tắc ứng xử (COC) trên Biển Đông”.
Giáo sư Thayer cũng cho rằng ông Phùng Quang Thanh rơi vào thế bất lợi khi phải xuất hiện trong cùng phiên họp với các bộ trưởng quốc phòng từ Úc David Johnson và Indonesia Purnomo Yusgiantoro: “Cùng lắm Úc sẽ lặp lại quan điểm ủng hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông, Indonesia cũng vậy. Đây không phải là một nhóm mạnh để công khai hậu thuẫn Việt Nam”.
“Về giải pháp đấu tranh pháp lý, chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Theo lịch làm việc được đăng tải trên trang web của Viện Nghiên cứu Chiến lược (IISS), đơn vị tổ chức hội nghị, Tướng Phùng Quang Thanh sẽ có bài phát biểu trong phiên họp toàn thể vào lúc 12:00 trưa ngày 31/5 với chủ đề “Giải quyết các mối quan hệ căng thẳng mang tính chất chiến lược”và sẽ có các cuộc tiếp xúc song phương với một số trưởng đoàn khác tham dự Đối thoại Shangri-La 2014.
Một nhân tố cực kỳ quan trọng đó là vai trò của Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe phát biểu tại Shangri-La: “Chúng tôi ủng hộ Việt Nam trong nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại. Các động thái nhằm củng cố việc thay đổi hiện trạng bằng cách tạo ra sự việc đã rồi cần bị lên án mạnh mẽ”. Và đây sẽ là điều giới chức Việt Nam đã tính toán.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 29/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói “Về giải pháp đấu tranh pháp lý, chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định.”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
‘Đổi trắng thay đen’
Giáo sư Thayer cảnh báo rằng Trung Quốc đã cử một phái đoàn rất mạnh đến Đối thoại Shangri-la năm nay, tiêu biểu là cựu Thứ trưởng Ngoại giao Phó Oánh, Chủ tịch Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội Trung Quốc, người nổi tiếng cứng rắn và có tài hùng biện.
Bà Phó Oánh được xem là người hùng biện và hiệu quả hơn nhiều quan chức khác của TQ.

“Tôi đã quan sát bà Phó phát biểu nhiều lần. Người phụ nữ nhỏ con này có thể sử dụng lời lẽ để đẩy văng bất cứ ai ra khỏi Trái Đất,” giáo sư Thayer nói.
Ông dự đoán rằng phía Trung Quốc sẽ tìm cách “đổi trắng thay đen” và đổ lỗi cho Việt Nam là nước chủ động gân hấn.
Nhưng bà Phó Oánh có tài hùng biện giỏi như thế nào đi chăng nữa cũng không thể thổi bay các chứng cứ hung hăng và giàn khoan trái phép của Trung Quốc đang cắm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Năm nay, nhiều sự chú ý cũng được cho là sẽ tập trung vào nỗ lực tiến đến một vai trò lớn hơn trong nền an ninh toàn cầu và khu vực của Nhật Bản, nước cũng đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Hoa Đông.
Bình luận về nỗ lực hiện nay nhằm tiến đến một vai trò lớn hơn trong nền an ninh toàn cầu và khu vực của Nhật Bản, giáo sư Thayer cho rằng điều này sẽ được Việt Namhết sức hoan nghênh“.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe phát biểu tại Shangri-La
“Tôi đã nói chuyện với một số chuyên gia về Việt Nam và họ cho rằng Việt Nam càng thắt chặt quan hệ với Nhật Bản và Philippines bao nhiêu sẽ càng khiến Trung Quốc phải dè chừng bấy nhiêu,” ông nói.
“Trung Quốc lúc đó sẽ phải xem xét liệu gây hấn với Việt Nam khi nước này đang thắt chặt quan hệ với các đồng minh thân cận của Hoa Kỳ có khiến Washington phải vào cuộc hay không.”
‘Đôi bên cùng bị hủy diệt’
Trong bài viết trên Tạp chí Diplomat vào ngày 28/05, Giáo sư Carl Thayer cho biết Việt Nam đã thực hiện cách tiếp cận “rất thận trọng” và “ôn hòa” để giải quyết khủng hoảng với Trung Quốc.
Trước tiên là đảm bảo sự hiện diện liên tục của các tàu phòng vệ và cảnh sát biển ở gần giàn khoan, tuy nhiên cách ly tàu ngầm và tàu chiến ra khỏi vùng tranh chấp.
Thứ hai là đề xuất các giải pháp ngoại giao: đề nghị một cuộc gặp cấp cao giữa Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng và lãnh đạo Trung Quốc, mở đường dây nóng giữa lãnh đạo hai bên, giao thiệp giữa quan chức ngoại giao, và đối thoại với đại diện của Bắc Kinh bên lề các cuộc họp quốc tế.
“Tuy vậy Trung Quốc đã khước từ tất cả các tiếp cận đó, và đối thoại giữa hai bên vẫn hết sức lạnh nhạt,” ông Carl Thayer nói.
Trước thất bại của các động thái song phương, có vẻ như Việt Nam sẽ cân nhắc những chiến lược dài hạn để kiềm tỏa các hành động khiêu khích của Trung Quốc, theo GS Thayer.
Tuy vậy, GS Carl Thayer cảnh báo rằng nếu xung đột với Việt Nam leo thang tới miệng hố chiến tranh, rất có thể Việt Nam sẽ sử dụng chiến lược “đôi bên cùng bị hủy diệt”, nhằm phá hủy nền kinh tế Trung Quốc bằng cách tạo tâm lý bất ổn và đẩy giá bảo hiểm tăng cao, khiến nhà đầu tư nước ngoài tháo chạy.
Theo đó, Việt Nam sẽ tập trung tấn công các tàu thương mại và chở dầu của Trung Quốc qua biển Đông, cũng như căn cứ hải quân ở Hải Nam và đảo Phú Lâm, những vị trí nằm trong tầm bắn của tên lửa đạn đạo bờ biển Việt Nam.
Bộ đội phòng không Việt Nam
“Một vài chiến lược gia Việt Nam còn cho rằng nước này có thể mua cấp tập số lượng lớn các tên lửa đạn đạo có đủ khả năng tấn công Thượng Hải hoặc thậm chí là Hong Kong. Khi xung đột vũ trang nổ ra, các thành phố này có thể là mục tiêu để làm rối loạn kinh tế Trung Quốc. Nó sẽ gây ra ảnh hưởng toàn cầu, và các chuyên gia Việt Nam kì vọng điều đó sẽ khiến các cường quốc can thiệp để ngăn cản Bắc Kinh gây hấn,” Ông Thayer viết trên Diplomat.
Trung Quốc có bộ máy quân sự, ngoại giao hùng mạnh nhưng đang bị cả thế giới lên án, còn Việt Nam tuy quân sự, ngoại giao yếu hơn nhưng đủ sức răn đe và việt Nam có chính nghĩa, được nhiều nước và truyền thông quốc tế ủng hộ. Thế cờ đang ở trong tay ai?




Ai “hưởng lợi” từ Công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng?

Ai “hưởng lợi” từ công thư 1958

Với công thư của ông Phạm Văn Đồng, Trung Quốc không chịu bất cứ thiệt hại gì và Việt Nam cũng không hưởng được bất cứ lợi ích gì.

LTS: Trao đổi với báo giới bên hành lang Quốc hội cuối tuần qua, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc cho hay, Chính phủ đang chuẩn bị các hồ sơ chứng lý để làm cơ sở khởi kiện ra toà án quốc tế, nếu Trung Quốc không có động thái rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Trong vụ kiện đó, Hoàng Sa và Trường Sa sẽ là trọng tâm bởi từ đó sẽ liên quan đến các vùng biển xung quanh. Trung Quốc đang lập luận rằng: “Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Vậy sự thật của nội dung công thư năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là gì? Ý nghĩa pháp lý của công thư này đối với chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa ra sao? Nó có phải là 1 bất lợi pháp lý ở Tòa án Quốc tế hay không? Tuần Việt Nam xin giới thiệu tư liệu của tác giả Lê Bình.

Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958 gồm 5 điểm. Trong đó, điểm 1 nguyên văn bản tiếng Trung được dịch ra như sau: “Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)”.

Sau Tuyên bố này, ngày 14/9/1958, Thủ tướng nước VNDCCH Phạm Văn Đồng gửi bức công thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai với nguyên văn như sau: “Thưa đồng chí Tổng lý! Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.

Hoàn cảnh đặc thù

Muốn hiểu thấu đáo được ý nghĩa công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng ta cần phải nhìn nhận lại lịch sử để thấy được hoàn cảnh lúc bấy giờ. Khi đó, trong bối cảnh của thời kỳ Chiến tranh lạnh, Đài Loan còn giữ hai đảo nằm giáp lãnh thổ Trung Quốc là Kim Môn và Mã Tổ. Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. 

Thêm vào đó, ngày 29/4/1958 LHQ thông qua bốn Công ước gồm: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Và ra hạn chót để các quốc gia là thành viên của LHQ có thể ký nhận công ước này là ngày 31/10/1958. Vì khi đó, Trung Quốc không phải là một thành viên của LHQ nên nước này ra tuyên bố ngày 4/9/1958 để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận là cần thiết.

Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bấy giờ.

Trong một buổi họp tại Hà Nội ngày 2/12/1992, ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên UVBCT, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho rằng: “Khi đó, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa - Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho Tổ quốc. Đặc biệt thêm nữa là tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Nếu đọc kỹ công thư này, còn thấy sự khôn khéo trong cách hành văn ngoại giao, trong đó phía Việt Nam chỉ nói: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”

Câu văn này có nghĩa là phía Việt Nam ghi nhận ý muốn của Trung Quốc muốn nới rộng hải phận qua một tuyên bố đơn phương của mình, và tán đồng ý muốn này. Và đoạn văn kế đó có thể hiểu ngầm là trong tình trạng giao hảo “lúc đó” giữa hai nước, phía Việt Nam sẽ tôn trọng ý muốn 12 hải lý hải phận của Trung Quốc. Đặc biệt, không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong một tài liệu nghiên cứu thuộc Văn phòng Địa lý, Vụ nghiên cứu tình báo trực thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958”, ở Điều 1 không có liệt kê quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa. Nguyên văn được dịch như sau:“Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ và các đảo khác thuộc Trung Quốc (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)”.

Trung Quốc có ý đồ gì khi cắt đi phần liệt kê quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa trong bản tiếng Anh? Từ đó có thể cho thấy ý đồ thâm hiểm sâu xa của Trung Quốc ngay cả khi quan hệ giữa 2 nước là hữu nghị, thân cận!

Luật pháp quốc tế

Trung Quốc lập luận rằng, với công thư 1958, Việt Nam thừa nhận quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa là lãnh thổ Trung Quốc trong quá khứ. Vì vậy, dựa trên nguyên tắc estoppel của luật pháp quốc tế, chính phủ Việt Nam hiện nay nên tuân theo ghi nhận trước đó.

Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia.

Tuy nhiên, theo luật quốc tế, “Thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.

Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: 1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch. 2. Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. 3. Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó. 4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. 5. Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó”.

Theo Hiệp định Genève 1954, 2 hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và chỉ Chính quyền này được phát biểu về các đảo. Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp cho rằng: “Việt Nam Dân chủ cộng hòa không phải là chính phủ, về mặt lãnh thổ, có thẩm quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có quyền lực”. Gắn nội dung này vào với điều kiện 1 của estoppel có thể thấy, ông Phạm Văn Đồng không phải là người đại diện cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nên dù ông có nói như thế nào về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều không có ý nghĩa pháp lý.

Trong khi đó, đại diện của nước Việt Nam sau khi người Pháp ra đi, Chính phủ Nam Việt Nam luôn khẳng định duy trì quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bằng nhiều Nghị định về quản lý các đảo, như Nghị định về quần đào Hoàng Sa được ký ngày 13/7/1961 thành lập đơn vị hành chính Định Hải; Nghị định ngày 21/10/1969 gộp xã đó với xã Hoa Long; hay việc sáp nhập các đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy ngày 22/10/1956, v.v… So sánh với điều kiện thứ 4 của estoppel cho thấy, có một tuyên bố được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng đó là sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, chứ tuyệt đối không phải là những tuyên bố từ bỏ chủ quyền. Nhưng người Trung Quốc lại sử dụng thái độ của các Chính phủ Việt Nam khác để làm căn cứ.

Thêm một lý do nữa không thể vận dụng thuyết trong trường hợp này, vì với công thư của ông Phạm Văn Đồng, Trung Quốc không chịu bất cứ thiệt hại gì và Việt Nam cũng không hưởng được bất cứ lợi ích gì (không đáp ứng được điều kiện thứ 4 như đã nêu). Trên cơ sở phân tích này, có thể thấy lập luận của Trung Quốc dựa trên nguyên tắc estoppel của luật pháp quốc tế là hoàn toàn vô giá trị.

Từ sau năm 1975, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã kế thừa chủ quyền  từ VNCH nên hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền hợp pháp của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng quan trọng hơn hết, như ông Đinh Kim Phúc, Trung tâm nghiên cứu Đông Á, Đại học Mở Thành Phố HCM chỉ ra: “Cần phải nói rằng từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa”.

Là quốc gia chiếm hữu 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đầu tiên khi nó còn là những vùng đất vô chủ, ít nhất từ thế lỷ XVII đến này, Việt Nam đã tổ chức khai thác khẳng định chủ quyền theo một cách liên tục, không gián đoạn.

Đó cũng chính là nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được luật pháp quốc tế hiện đại thừa nhận. Trái lại, Trung Quốc chỉ quan tâm đến 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ đầu thế kỷ 20 và đánh cướp từ Việt Nam bằng các cuộc tấn công quân sự vào năm 1956, 1974 và 1988.

MENU SẢN PHẨM


 
Máy tính Xách tay  
Máy tính Để bàn  
Máy chiếu - Projector  
Máy chủ - Server
Thiết bị Văn phòng
Linh kiện Văn phòng
Linh kiện Laptop
Linh kiện máy bàn
Thiết bị mạng
     
Thiết bị lưu trữ
Thiết bị Quan sát
Máy ảnh Kỹ thuật số
Phần mềm
Thiết kế Web
Dịch vụ Công ty
HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

SẢN PHẨM NỔI BẬT